Chương 15
Một đêm dài êm ả trôi qua. Harkat vẫn còn bị giữ lại trong phòng các Ông Hoàng để trả lời câu hỏi.
Ông Gavner bận rội với công việc của một tướng quân, chúng tôi chỉ thấy ông khi ông bò vào quan tài để ngủ.
Hầu hết thời gian, tôi theo ông Crepsley loanh quanh trong phòng Khledon Lurt (ông gặp gỡ nhiều bạn bè cũ, xa cách nhau nhiều năm), hoặc theo ông và cụ Seba Nile xuống các cửa hang.
Ông lão ma cà rồng Seba này lo âu vì thông điệp của Harkat hơn bất kì ai. Ông là người già thứ nhì trong núi (ma cà rồng già nhất là Ông Hoàng Paris Skyle, hơn tắm trăm tuổi), cũng là người duy nhất có mặt tại nơi này khi lão Tí-nị tới đây và đưa ra những lời thông báo từ nhiều thế kỉ trước. Cụ Seba Nile bảo:
- Nhiều ma cà rồng ngày nay không tin vào những truyền thuyết cổ. Họ tin rằng, lời cảnh báo của ông Tí-nị chỉ là những gì chúng ta bày đặt ra để hù dọa lớp trẻ. Nhưng ta còn nhớ nét mặt ông ấy ra sao. Ta nhớ lại, giọng ông ta vang vọng khắp phòng các Ông Hoàng và nỗi khiếp đảm lan truyền khắp mọi người. Chúa tể Ma Cà Chớp không phải là một hình ảnh trong huyền thoạ. Mà là sự thật. Và bây giờ, hình như, nhân vật đó sắp suất hiện.
Ông cụ chợt im lặng. Đang uống một chai rượu nóng, nhưng hình như cụ không quan tâm mình đang uống gì.
Ông Crepsley hăng hái nói:
- Chưa đâu. Lão Tí-nị già như trái đất. Khi lão nói đêm đã cận kề, có thể ý lão là mấy trăm hoặc mấy ngàn năm nữa.
Cụ Seba lắc đầu:
- Chúng ta có cả bảy thế kỷ để tạo ra một chỗ đứng và giải quyết vụ ma cà chớp. Bất chấp mọi hậu quả, đáng lẽ chúng ta phải dứt điểm hết bọn chúng cho xong. Thà bị loài người đưa đến chỗ diệt vong, còn hơn bị ma cà chớp tiêu diệt hoàn toàn.
- Đệ không đồng ý. Thà liều mạng với một Chúa tể Ma Cà Chớp trong huyền thoại còn hơn chết vì cọc nhọn của con người.
Cụ Seba buồn rầu gật, nhấp ngụm rượu, rồi nói:
- Đệ có lý. Ta già rồi, đầu óc không còn được minh mẫn như xưa. Có lẽ những lo âu của ta chỉ là những lo âu của một kẻ sống quá lâu. Tuy nhiên...
Những câu nói bi quan, yếm thế như vậy luôn trên miệng mọi người, kể cả những kẻ mỉa mai thẳng thừng ý tưởng về một Chúa tể Ma Cà Chớp, dường như luôn luôn chấm dứt bằng mấy câu: "Dù vậy, tuy nhiên, nhưng..." Sự căng thẳng ứ đọng trong không khí đầy bụi bặm từ trong các đường hầm đến các phòng.
Chỉ có một người dường như không bận tâm đến những lời đồn, đó là Kurda Smahlt.
Đêm thứ ba, sau khi Harkat trao thông điệp, Kurda tươi tỉnh như bình thường, xuất hiện trước hốc ngủ của chúng tôi.
- Xin chào. Hai đêm qua tôi như phát sốt, nhưng mọi người chuyện đã dịu xuống, nên có mấy giờ rảnh rỗi. Định cho Darren làm một vòng qua các phòng.
Tôi mừng quýnh:
- Tuyệt quá! Ông Crepsley định đưa cháu đi, nhưng vẫn chưa đi được.
- Ông Larten, tôi cho Darren đi một vòng có làm phiền ông không?
- Không hề. Ngược lại, ta vô cùng cảm kích vì một người cao quý sắp được phong chức như anh, lại bỏ thời giờ hướng dẫn nó đi chơi.
Làm ngơ trước những câu mỉa mai của ông ma cà rồng già, Kurda vui vẻ hỏi:
- Nếu thích, mời ông cùng đi luôn.
Crepsley cười nhạt:
- Không. Cám ơn.
- O.K. Sẵn sàng chưa Darren?
- Sẵn sàng.
Tôi và Kurda tiến bước.
Trước hết, Kurda đưa tôi đi thăm mấy nhà bếp. Đó là những hang động rộng lớn, nằm bên dưới các phòng. Bếp lửa lớn sáng rực. Các đầu bếp làm theo ca suốt thời gian Hội nghị, để kịp thời phục vụ đồ ăn cho khách.
Kurda nói:
- Nếu không có Hôi nghị, ở đây yên ắng hơn nhiều. Thường thường không tới ba mươi ma cà rồng trú ngụ. Ai không muốn ăn tập thể vào những giờ nhất định thì phải tự nấu nướng.
Rời nhà bếp, chúng tôi tới thăm khu chăn nuôi dê, cừu, bò. Thấy tôi thắc mắc vì sao lại nuôi gia súc, Kurda cho biết:
- Chúng ta không thể vận chuyển đủ sữa và thịt phục vụ cho toàn thể ma cà rồng. Đây không là một khách sạn, để có thể nhấn chuông gọi nhà cung cấp bất cứ lúc nào. Vận chuyển thực phẩm là một vần đề vô cùng nhiêu khê. Tự chăn nuôi và giết mổ đơn giản hơn nhiều.
- Còn máu người? Từ đâu ra?
- Từ nhứng người hào phóng muốn tặng. Kurda nháy mắt nói rồi đưa tôi đi tiếp. (Mãi sau này, tôi mới biết ông ta né tránh câu hỏi của tôi).
Điểm kế tiếp là khu hỏa táng, nơi tiêu xác những ma cà rồng chết trong núi.
Tôi hỏi:
- Nếu họ không muốn bị thiêu thì sao?
- Kỳ lạ là hiếm ai yêu cầu được chôn cất. Có lẽ vì khi còn sống họ nằm trong quan tài nhiều rồi. Tuy nhiên nếu ai yêu cầu được chôn, ý nguyện của họ vẫn được tôn trọng. Cách đâu không lâu, chúng ta thả người chết xuống suối. Sâu dưới những căn phòng, có một cái hang, từ đó dẫn đến một dòng suối lớn. Nước sẽ cuốn xác họ đi. Nơi đó được gọi là phòng của Chuyến Đi Cuối Cùng. Dù bây giờ không còn sử dụng nữa, nhưng khi nào xuống lối đó, ta sẽ chỉ cho em thấy.
- Cháu tưởng chỉ có những đường hầm để ra vào, làm sao xuống đó được.
- Một trong những thú tiêu khiển của ta là làm bản đồ. Mấy chục năm nay, ta vẫn đang cố gắng lập một bản đồ chính xác của núi này. Vẽ bản đồ các phòng thì dễ rồi, nhưng các đường hầm khó hơn nhiều. Chúng chưa bao giờ được lập bản đồ, nhiều đường tình trạng rất xấu. Mỗi khi trở về đây, ta lại xuống bên dưới để vẽ bản đồ những vùng chưa được biết tới, nhưng không có nhiều thời gian như mong muốn. Trở thành một Ông Hoàng, thời gian lại càng eo hẹp hơn.
- Trò này coi bộ thú vị đấy. Lần sau cho cháu đi cùng được không? Cháu muốn xem làm bản đồ như thế nào.
- Em thích thật à?
- Tại sao không?
- Ha ha! Vì mỗi khi ta bắt đầu nói tới chuyện bản đồ, các ma cà rồng đều ngủ gà ngủ gật. Chẳng ai quan tâm đến vần đề chán phèo này. Họ bảo: "Chuyện bản đồ là của con người". Hầu hết ma cà rồng, bất chấp hiểm nguy, thà tự khám phá một vùng đất, hơn là theo chỉ dẫn bản đồ.
Phòng hỏa táng là một hang hình bát giác, với mái trần cao đầy vết nứt. Hầm thiêu xác là một cái hố ngay giữa phòng. Hai phụ nữ và một người đàn ông ngồi trên mấy cái ghế dài làm bằng xương, đang thì thầm nho nhỏ với nhau. Dưới chân họ, một đứa trẻ lê la chơi với mấy mẩu xương thú. Họ không có bề ngoài giống ma cà rồng. Gầy nhom và có vẻ bệnh hoạn. Tóc rũ rượi, quần áo rách bươm. Da họ khô khốc tái nhợt. Mắt họ trắng đến lạ kỳ. Khi chúng tôi bước vào mấy người lớn ôm vội đứa trẻ, lẩn qua cánh cửa cuối phòng.
Tôi hỏi:
-Ai vậy?
- Các Giám hộ của phòng này.
- Có phải là ma cà rồng không? Trông họ không giống ma cà rồng. Mà cháu tưởng, chỉ mình cháu là đứa trẻ ma cà rồng độc nhất ở đây chứ.
- Đúng vậy.
- Thế còn đứa nhỏ...
Kurda hấp tấp nói ngay:
- Sau này hãy hỏi.
Thấy tôi nhìn sững, ông ta cười như xin lỗi, nho nhỏ nói:
-Xong chuyến tham quan này ta sẽ cho em biết về họ. Nói tại đây, xui xẻo lắm. Dù không phải là kẻ mê tín dị đoan, nhưng ta không muốn thử thời vận ở những nơi có giám hộ này. (Dù ông ta khơi gợi tính hiếu kì của tôi, nhưng mãi sau này tôi mới biết được thêm về mấy người kỳ lạ được gọi là Giám Hộ đó, vì cuối cuộc tham quan, tôi mệt đứ đừ, quên cả hỏi về họ).
Tạm bỏ qua vấn đề mấy Giám hộ, tôi quan sát hầm thiêu. Đó là một cái hố nằm sâu trong lòng đất, dưới đáy chất củi và lá khô. Chung quanh miệng hố là những cái thau lớn, mỗi thau có một cây gậy giống như gậy chơi khúc côn cầu.
Kurda bảo:
- Đó là những cái chày, chày để giã xương.
- Xương gì?
- Xương ma cà rồng. Lửa không đốt hết được xương. Ngay khi lửa tàn, xương được nhặt ra, bỏ vào những cối kia để giành tro bụi.
- Rồi làm gì?
- Làm sánh súp thịt dơi.
Thấy mặt tôi xanh lè, ông ta phá lên cười:
- Đùa thôi. Tro cốt sẽ được tung theo gió quanh núi Ma Cà Rồng. Để linh hồn được giải thoát.
- Coi bộ cháu không khoái vụ này rồi.
- Còn hơn chôn chân xuống đất cho dòi bọ đục khoét. Riêng ta, nếu tới lúc, ta thích được nhồi bông lộng kiếng hơn.
Nói xong ông ta lại phá lên cười ha hả.
Ra khỏi khu hỏa táng, chúng tôi tới ba phòng thể thao (họ gọi là phòng thể thao). Tôi đang nôn nóng được tới đó, nhưng Kurda bỗng ngừng lại trước một cánh cửa nhỏ, nhắm mắt, cúi đầu, rồi đưa mấy đầu ngón tay lên rờ mí mắt. Tôi hỏi:
- Sao ông phải làm như vậy?
- Đó là tục lệ.
Ông ta bước đi, nhưng tôi vẫn đứng đó nhìn cánh cửa, hỏi:
- Phòng này gọi là gì?
- Em sẽ không muốn vào đó đâu.
- Sao lại không?
- Đây là Phòng Tử Thần.
- Một phòng hỏa táng nữa à?
Ông ta lắc đầu:
- Không. Đây là nơi để hành hình.
- Phòng tử hình?
Thấy tôi thật sự nôn nao vì tò mò, Kurda thở dài hỏi:
- Em muốn vào hả?
- Được không ạ?
- Được. Nhưng chẳng thú vị đâu. Tốt hơn là nên đi thẳng tới mấy phòng thể thao.
Can gián kiểu đó chỉ làm tôi muốn được thấy ngay những gì lẩn khuất sau cánh cửa kia. Nhận thấy điều đó trên mắt tôi, Kurda mở cửa, dẫn tôi vào.
Bên trong lờ mờ sáng, nên lúc đầu tôi tưởng không có ai. Rồi tôi nhận ra một Giám hộ da trắng ngồi khuất trong bóng tối của một bức vách cuối phòng. Hắn không đứng dậy, cũng không tỏ ra thấy chúng tôi. Tôi vừa định hỏi, tướng quân Kurda đã lắc đầu thì thầm:
- Tuyệt đối không nói gì về họ tại đây.
Tôi chẳng thấy có gì lạ lùng trong phòng tử hình này.Chỉ có một cái hố giữa phòng và mấy cái cũi bằng gỗ đặt sát tường. Ngoài ra không có gì đặc biệt.
Tôi hỏi:
- Có gì đáng sợ đâu?
- Để ta cho em thấy.
Ông đưa tôi tới sát miệng hố. Nhìn xuống, tôi thấy hàng tá những cây sào, tua tủa chĩa mũi nhọn lên trần. Tôi nghẹt thở:
- Cọc nhọn!
- Đúng. Truyền thuyết cọc nhọn đâm xuyên qua tim bắt nguồn từ đây. Khi một ma cà rồng bị đưa tới phòng Tử thần, sẽ được đặt vào một trong những cái cũi kia. Một sợi dây sẽ kéo cũi lơ lửng trên miệng hố. Từ trên cao, ma cà rồng đó sẽ bị quăng xuống và bị những cọc nhọn xuyên qua mình. Cái chết thường kéo dài và rất đau đớn. Bị quăng xuống tới ba bốn lần trước khi chết hẳn, là chuyện bình thường.
Tôi kinh khiếp hỏi:
- Nhưng vì sao chứ? Họ giết ai tại đây?
- Ma cà rồng già và tàn tật. Họ yêu cầu được giết. Nếu còn đủ sức, thì họ thích được thách đấu cho tới chết, hoặc tìm cái chết bằng cách lang thang trong những vùng hoang dã. Nhưng những kẻ không còn sức lực hay khả năng để tìm cái chết, họ yêu cầu được tới đây, nơi họ có thể đối diện tử thần và chết một cách can đảm.
Tôi kêu lên:
- Ghê tởm quá. Làm sao lại giết người già cả chứ.
- Đồng ý. Theo ta, tính cao thượng của ma cà rồng đã đặt không đúng chỗ. Người già yếu thường vẫn có thể cống hiến được rất nhiều. Riêng ta, ta hy vọng níu lấy sự sống càng lâu càng tốt. Nhưng đa số ma cà rồng già bám vào niềm tin cổ lỗ: cuộc đời chỉ đáng sống khi tự lo liệu được cho mình. Nhưng đối với những ma cà rồngđiên loạn thì khác. Không giống như ma cà chớp, chúng ta không để những đồng loại điên rồ tự do hành hạ và giết con người. Vì họ rất khó giam tù những ma cà rồng điên loạn có thể dùng móng bám vào vách đá để thoát, nên đối với họ, tử hình là giải pháp nhân đạo nhất.
- Có thể cùm họ lại.
- Không cùm xích nào có thể giữ nỗi ma cà rồng. Hãy tin ta, Darren, giết một ma cà rồng điên rồ là sự nhân từ, đối với thế giới và chính bản thân kẻ đó. Với những ma cà rồng phản bội cũng vậy, dù trong số đó có vài người đáng nể trọng. Trung tín là đức tính vượt trội của ma cà rồng, là một phần thưởng gắn bó chặt chẽ với những đường lối cổ. Ngoài ma cà chớp, khi chúng li khai, chúng bị gọi là những kẻ phản bội, còn nhiều kẻ khác cũng đã bị bắn và giết chết. Trong một ngàn bốn trăm năm, từ khi ma cà rồng sống tại đây, mới chỉ có sáu tên phản bội bị tử hình.
Nhìn xuống những cây cọc nhịn hoắt, tôi rùng mình, tưởng tượng mình bị trói trong cũi, lơ lửng trên cái hố đen ngòm kia, chờ rơi xuống...
Tôi hỏi:
- Họ có bị bịt mắt không?
- Ma cà chớp thì có, vì lòng nhân từ. Còn những ma cà rồng chọn cái chết trong phòng tử thần thì không muốn bịt mắt. Họ muốn nhìn thẳng cái chết, để chứng tỏ không hề sợ. Trong khi đó, những kẻ phản bội bị đặt nằm ngửa trong cũi, để cọc đâm từ lưng tới. Đối với ma cà rồng, bị chết vì cọc đâm từ sau lưng là một sỉ nhục lớn.
Tôi lèm bèm:
- Thà để cọc đâm từ sau lưng còn đỡ khiếp hơn.
Kurda mỉm cười:
- Hy vọng không bao giờ em bị đâm cả hai kiểu đó. Nơi này ảm đạm quá, chuồn thôi. Đi chơi vài môn thể thao.
Đẩy tôi ra khỏi phòng, Kurda nôn nóng bỏ lại sau lưng những cây cọc nhọn, những cái cũi và viên giám hộ lạ lùng kỳ bí. Hết chương 15